Căn cứ quy định tại Điều 624 Bộ luật dân sự 2015 thì: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Căn cứ quy định tại Điều 626 Bộ luật dân sự 2015, người lập di chúc có các quyền sau:
· Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
· Phân định di sản cho từng người thừa kế
· Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng
· Giao nghĩa vụ cho người thừa kế
· Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản
Như vậy, có thể thấy người để lại di sản thừa kế có quyền quyết định ai sẽ là người được hưởng di sản thừa kế, và ai sẽ là người không được hưởng di sản thừa kế.
Tuy nhiên căn cứ quy định tại Điều 644 Bộ luật dân sự 2015, những trường hợp sau vẫn được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
· Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
· Con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó.
Căn cứ quy định tại Điều 650 Bộ luật dân sự 2015, trường hợp di chúc vô hiệu hoặc phần di sản không được định đoạt trong di chúc thì những người không có tên trong di chúc nhưng thuộc diện được hưởng thừa kế theo pháp luật thì vẫn được hưởng di sản lần lượt theo hàng thừa kế.
Người không được hưởng di sản thừa kế trong trường hợp không có di chúc

· Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, hành vi ngược đãi, hành hạ nghiêm trọng người để lại di sản, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người đó. Như vậy, trong trường hợp này người thừa kế bị tước quyền hưởng di sản nếu tại thời điểm mở thừa kế bị kết án về tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, hành vi ngược đãi, hành hạ nghiêm trọng người để lại di sản, các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người đó hoặc bản án đã kết án trước đó vẫn còn hiệu lực. Nếu các bản án này chưa có hiệu lực thì vụ án thừa kế phải tạm đình chỉ cho đến khi bản án hình sự có hiệu lực.
· Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. Người thừa kế bị coi là vi phạn nghĩa vụ nuôi dưỡng là người được Luật hôn nhân và gia đình xác định có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản nhưng họ không thực hiện nghĩa vụ đó. Toà án giải quyết vụ án thừa kế có quyền tước bỏ quyền hưởng di sản của người thừa kế đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. Vì thế, chính Toà án giải quyết vụ án thừa kế phải xác định sự vi phạm nghĩa vụ của người đó có nghiêm trọng hay không. Hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng được coi là nghiêm trọng chưa được BLDS năm 2015 quy định cụ thể, tuy nhiên theo tinh thần của Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toàn án nhân dân tối cao ướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế thì những người có quyền nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau như cha mẹ và con, ông bà và cháu, anh chị em mà trong khoảng thời gian 3 năm trước khi người để lại di sản chết, nếu có khả năng thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡngnhuwng không thực hiện làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng, thì không có quyền hưởng di sản của người đó.
· Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng. Người thừa kế phạm tội chỉ bị tước quyền hưởng di sản nếu hành vi phạm tội của họ chứa đựng động cơ là nhằm hưởng di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng
· Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sữa chữa di chúc, hủy di chúc, che dấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Người thừa kế sẽ bị tước quyền hưởng di sản nếu nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản mà có một trong các hành vi:
+ Cung cấp thông tin sai sự thật làm cho người để lại di sản tin vào thông tin đó mà lập di chúc
+ Thực hiện hành vi tác động đến tâm lý, tinh thần của người để lại di sản buộc họ phải lập một di chúc hoặc không lập di chúc
+ Lập di chúc giả cả về nội dung lẫn hình thức nhằm làm cho người khác tin rằng đó là di chúc do người chết để lại
+ Thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung của di chúc
+ Huỷ di chúc mà nười để lại di sản đã lập
Tuy nhiên, nếu người để lại di sản đã biết về hành vi của những người trên nhưng vẫn cho hưởng di sản theo di chúc, thì những người này vẫn được hưởng di sản thừa kế.